Mục lục bài viết
1. Có được tiếp tục cưỡng chế thu hồi đất trong thời gian xử lý khiếu nại, tố cáo không ?
Luật sư tư vấn pháp luật đất đai về quyền khiếu nại, gọi ngay: đẹp không tưởng
Luật sư tư vấn:
Theo quy định của Điều 204 Luật đất đai 2013 cá nhân hộ gia đình sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Điều 204. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về đất đai
1. Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Việc thực hiện cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện căn cứ vào điều 17, Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai như sau:
Điều 17. Thông báo thu hồi đất, thành phần Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất, kinh phí cưỡng chế thu hồi đất, giải quyết khiếu kiện phát sinh từ việc cưỡng chế thu hồi đất
Việc thông báo thu hồi đất, thành phần Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất, kinh phí cưỡng chế thu hồi đất, giải quyết khiếu kiện phát sinh từ việc cưỡng chế thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật Đất đai thực hiện theo quy định sau đây:
1. Cơ quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp phê duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, gồm các nội dung sau đây:
a) Lý do thu hồi đất;
b) Diện tích, vị trí khu đất thu hồi trên cơ sở hồ sơ địa chính hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; trường hợp thu hồi đất theo tiến độ thực hiện dự án thì ghi rõ tiến độ thu hồi đất;
c) Kế hoạch điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;
d) Dự kiến về kế hoạch di chuyển và bố trí tái định cư;
đ) Giao nhiệm vụ lập, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
2. Thông báo thu hồi đất bao gồm các nội dung quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này.
3. Thành phần Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất gồm:
a) Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là trưởng ban;
b) Các thành viên gồm đại diện các cơ quan tài chính, tài nguyên và môi trường, thanh tra, tư pháp, xây dựng cấp huyện; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã; tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất và một số thành viên khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định.
4. Lực lượng Công an căn cứ vào phương án cưỡng chế thu hồi đất để xây dựng kế hoạch bảo vệ trật tự, an toàn trong quá trình tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất.
5. Khi thực hiện cưỡng chế thu hồi đất mà người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản theo quy định tại Điểm c Khoản 4 Điều 71 của Luật Đất đai thì Ban thực hiện cưỡng chế giao tài sản cho Ủy ban nhân dân cấp xã bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật.
6. Người có đất thu hồi, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại về việc thu hồi đất theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực hiện quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật thì phải dừng cưỡng chế nếu việc cưỡng chế chưa hoàn thành; hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định thu hồi đất gây ra (nếu có).
Đối với trường hợp việc thu hồi đất có liên quan đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân khác trong việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật khác có liên quan thì Nhà nước tiến hành thu hồi đất, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất theo quy định mà không phải chờ cho đến khi giải quyết xong quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất giữa người có đất thu hồi và tổ chức, cá nhân đó theo quy định của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên căn cứ theo khoản 6, điều 17, Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thì việc khiếu nại , tố cáo trong quá trình cưỡng chế thu hồi đất khi chưa có quyết định giải quyết thì vẫn thực hiện cưỡng chế như bình thường.
6. Người có đất thu hồi, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại về việc thu hồi đất theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực hiện quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật thì phải dừng cưỡng chế nếu việc cưỡng chế chưa hoàn thành; hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định thu hồi đất gây ra (nếu có).
Đối với trường hợp việc thu hồi đất có liên quan đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân khác trong việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật khác có liên quan thì Nhà nước tiến hành thu hồi đất, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất theo quy định mà không phải chờ cho đến khi giải quyết xong quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất giữa người có đất thu hồi và tổ chức, cá nhân đó theo quy định của pháp luật có liên quan.
>> Như vậy việc cưỡng chế thu hồi đất vẫn được thực hiện bình thường khi có giải quyết khiếu nại, tố cáo trừ trường hợp có quyết định định giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc có quyết định dừng việc cưỡng chế thu hồi đấ, kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật Đất đai về cưỡng chế thu hồi đất, gọi: đẹp không tưởng để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.
>> Xem thêm: Giám định tỷ lệ thương tật khi bị tai nạn giao thông ? Bồi thường thiệt hại khi bị tai nạn
2. Khiếu nại khi đã hết thời hiệu ? Thời hiệu khiếu nại khi nhà nước thu hồi đất là bao lâu ?
Luật sư trả lời:
Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“Điều 149. Thời hiệu
1. Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.”
Như vậy, khi đã hết thời hiệu khiếu nại dù bạn có làm đơn khiếu nại gửi lên thì cơ quan nhà nước vẫn có quyền từ chối không giải quyết do đó đối với trường hợp này bạn nên xem xét, cân nhắc làm đơn yêu cầu, đề nghị, kiến nghị.
Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật đất đai trực tuyến gọi : đẹp không tưởng để được giải đáp. Trân trọng./.
>> Xem thêm: Bồi thường thiệt hại do bị tai nạn giao thông được pháp luật quy định như thế nào ?
3. Khiếu nại thu hồi đất để làm đường ?
Con hẻm này trước kia do nhà em đóng góp 1 phần đất để làm (khoảng hơn 10 năm về trước). Mấy ngày trước bên xã có thông báo sẽ mở rộng con hẻm, lấn vào phần đất của nhà em khoảng 0,5-1m. Gia đình em không đồng ý. Các gia đình trong hẻm đồng ý vì họ thấy. Xin luật sư tư vấn ?
Người gửi: Đức Vũ
Trả lời:
Chào bạn! Công ty Luật Minh Khuê đã nhận được câu hỏi của bạn. Cảm ơn bạn đã quan tâm và gửi câu hỏi đến công ty. Về vấn đề của bạn Công ty xin được giải đáp như sau:
Phần đất gia đình bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì vậy, bạn đủ điều kiện được bồi thường về đất khi bị thu hồi theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Đất Đai năm 2013 như sau:
” Điều 75. Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.”
Như vậy, trường hợp này khi UBND xã thực hiện việc thu hồi một phần đất của gia đình bạn thì phải có trách nhiệm bồi thường theo nguyên tắc quy định tại Điều 74 Luật đất đai năm 2013 như sau:
” Điều 74. Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.”
Mức bồi thường sẽ phụ thuộc vào bảng giá các loại đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Phước quy định tại thời điểm thu hồi đất.
Bảng giá đất năm 2014 tại tỉnh Bình phước bạn tham khảo : Quyết định số 57/2013/QĐ-UBND của tỉnh Bình Phước
Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn, xin đảm bảo tất cả những thông tin tư vấn hoàn toàn đúng theo tinh thần pháp luật. Chúng tôi rất mong nhận được hồi âm của bạn về vấn đề này và luôn sẵn sàng trao đổi những thông tin cần thiết. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty tư vấn của chúng tôi.
Trân trọng./.
>> Tham khảo dịch vụ pháp lý liên quan: Dịch vụ luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án
>> Xem thêm: Hành vi hủy hoại tài sản của người khác thì cấu thành tội gì ?
4. Quyền khiếu nại, khiếu kiện khi nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
1. Cơ sở hiến định và pháp định của quyền khiếu nại, khiếu kiện
Khiếu nại là một quyền hiến định, được quy định tại Điều 74 của Hiến pháp năm 1992. Quyền này được quy định chi tiết tại Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005 (Luật KNTC). Có thể nói, quyền khiếu nại ở Việt Nam được xây dựng từ khá sớm1 và khá quen thuộc trong đời sống pháp lý của người Việt Nam.
Khác với quyền khiếu nại, quyền khiếu kiện được quy định muộn hơn, gắn liền với sự ra đời của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung 1998 và 2006 (Pháp lệnh TTGQCVAHC). Ở Việt Nam, Hiến pháp không đề cập đến quyền khiếu kiện. Văn bản quy phạm pháp luật cao nhất ghi nhận và hướng dẫn quyền này là Pháp lệnh TTGQCVAHC. Điều này cho thấy, chưa có sự thống nhất trong việc nhìn nhận hai loại quyền này trong khi nó cùng song hành bảo vệ lợi ích người dân và hướng đến việc nâng cao hiệu quả của công tác QLNN.
So với khiếu kiện, việc giải quyết khiếu nại được thực hiện bởi những chủ thể thừa hành hành chính (cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) đã ban hành quyết định hành chính (QĐHC), thực hiện hành vi hành chính (HVHC) hoặc cấp trên trực tiếp của các chủ thể này). Vì vậy, ưu điểm của khiếu nại là ngay khi bắt tay vào giải quyết khiếu nại, vụ việc đã được nắm rất rõ, rất chi tiết và có thể được giải quyết nhanh chóng. Nếu được tận dụng, sẽ tiết kiệm được phần nào thời gian, công sức, chi phí xem xét từng tình tiết của vụ việc. Tuy nhiên, việc giải quyết khiếu nại có thể dẫn đến chủ quan và định kiến khi xem xét lại vụ việc đã và đang quản lý, đồng thời với tâm lý e ngại việc công nhận QĐHC, HVHC của chính mình là không đúng, nên có thể có những hạn chế nhất định.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: đẹp không tưởng
Trong khi đó, thẩm quyền giải quyết khiếu kiện là thẩm quyền của Tòa hành chính Tòa án nhân dân – chủ thể độc lập tương đối với cả hai bên: người khởi kiện (người dân) và người bị kiện (cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan HCNN). Với cơ chế giải quyết bởi Tòa án, chủ thể giải quyết khiếu kiện có phạm vi độc lập, không chịu định kiến bởi các lăng kính của các chủ thể quản lý nhà nước (QLNN) và vì vậy, có thể đưa ra một kết quả công minh. Tuy nhiên, do phải bắt đầu lại toàn bộ vụ việc từ yếu tố đầu tiên nên chủ thể giải quyết khiếu kiện có thể cần nhiều thời gian, công sức và chi phí. Mặt khác, do không là chủ thể trực tiếp quản lý nên chủ thể này có thể phải cần những cơ quan hỗ trợ về mặt kỹ thuật như: cơ quan giám định về thiệt hại trong thu hồi đất, đánh giá quỹ đất tái định cư…
2. Phạm vi của quyền khiếu nại, khiếu kiện nói chung
Mặc dù Hiến pháp quy định quyền khiếu nại có thể được thực hiện đối với “những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước” (Điều 74 Hiến pháp năm 1992), tuy nhiên, quyền này lại bị giới hạn trong Luật KNTC ở hai phạm vi: (i) phải là QĐHC cá biệt, tức là quyết định chứa đựng quy tắc xử sự cá biệt, được ban hành nhằm giải quyết những công việc cụ thể đối với những đối tượng xác định, có hiệu lực một lần theo vụ việc…và (ii) phải là HVHC cụ thể.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc, cá nhân, tổ chức không thể khiếu nại đối với các QĐHC quy phạm, QĐHC chủ đạo – những loại văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung, có tính định hướng và có phạm vi áp dụng rộng rãi.
Quyền khiếu kiện được xác định trong Pháp lệnh TTGQCVAHC là một quyền có phạm vi hẹp, hẹp hơn cả quyền khiếu nại. Thứ nhất, theo trình tự tiền tố tụng hiện hành, quyền khiếu kiện sẽ không được thực hiện nếu chưa qua khiếu nại lần đầu, tức là đã được giải quyết khiếu nại lần đầu mà vẫn không đồng ý hoặc hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định mà vẫn không được giải quyết (Điều 39 Luật KNTC). Điều này có thể hiểu, “cánh cổng” khiếu kiện nằm sau “cánh cổng” khiếu nại, và quyền khiếu kiện chỉ được thực hiện chỉ khi thuộc loại việc “đi qua được cánh cổng khiếu nại”. Thứ hai, nếu quyền khiếu nại được xác định chủ yếu theo hướng “mở” ở hai nội dung là QĐHC cá biệt và HVHC, thì quyền khiếu kiện được xác định theo hướng “đóng” ở 22 loại việc liệt kê tại Điều 11 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung2 năm 2006 (Pháp lệnh 1996 là 8 loại việc; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 1998 là 10 loại việc). Như vậy sẽ có một số khiếu nại đã “hoàn thành xong” các trình tự về khiếu nại vẫn có thể không được thụ lý giải quyết khiếu kiện vì không thuộc một trong 22 loại việc mà Pháp lệnh hiện hành đã liệt kê. Thứ ba, ngoài hai “điều kiện cần” nêu trên, đối với một số loại QĐHC, HVHC, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2006 còn quy định các “điều kiện đủ” như: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng… trong các trường hợp sau đây:
– Đối với QĐHC, HVHC về quản lý đất đai do Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý và không tiếp tục khiếu nại đến UBND cấp tỉnh.
– Đối với QĐHC, HVHC về quản lý đất đai do Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó (Điều 2, khoản 17 Điều 11 Pháp lệnh TTGQCVAHC)”.
Điều này có nghĩa là, trong lĩnh vực này, ngoài hai loại QĐHC, HVHC nêu trên, Tòa án sẽ không thụ lý. Tóm lại, có thể nói phạm vi của quyền khiếu kiện hành chính ở Việt Nam rất hẹp và được giới hạn “đóng” trong các loại việc mà văn bản hiện hành xác định.
3. Quyền khiếu nại, khiếu kiện trong hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Theo quy định của Luật KNTC, trình tự khiếu nại, khiếu kiện đối với QĐHC, HVHC được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Nếu không đồng ý với QĐHC, HVHC của chủ thể ban hành QĐHC hoặc thực hiện HVHC thì phải khiếu nại trong vòng 90 ngày kể từ ngày nhận được QĐHC hoặc biết được HVHC (Điều 31).
Bước 2: Cơ quan giải quyết khiếu nại phải trả lời bằng văn bản về việc thụ lý hay không thụ lý đơn khiếu nại với lý do rõ ràng. Kể từ ngày thụ lý giải quyết, Cơ quan giải quyết khiếu nại phải giải quyết khiếu nại trong vòng 30 ngày, đối với vùng sâu, vùng xa là 45 ngày (Điều 34, Điều 36).
Bước 3: Trong thời hạn 30 ngày (vùng sâu, vùng xa là 45 ngày) kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền:
– Khởi kiện ra Tòa hành chính. Nếu đã khởi kiện thì phải đi theo con đường tố tụng, không trở lại con đường hành chính nữa.
– Khiếu nại lên cấp trên trực tiếp (Điều 39).
Bước 4: Trường hợp khiếu nại lên cấp trên trực tiếp, cấp trên phải trả lời về việc có thụ lý hay không trong vòng 10 ngày. Kể từ ngày thụ lý giải quyết, phải giải quyết khiếu nại trong vòng 45 ngày, đối với vùng sâu, vùng xa là 60 ngày (Điều 42, 43).
Bước 5: Trong thời hạn 30 ngày (vùng sâu, vùng xa là 45 ngày) kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà người khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện ra Tòa hành chính (Điều 46).
Tuy nhiên, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định số 181/2004/NĐ-CP3, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP4) cùng với Pháp lệnh TTGQCVAHC hiện hành lại có những quy định khác biệt sau:
a) Đối với QĐHC, HVHC liên quan đến hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Chủ tịch UBND cấp huyện.
– Tại Bước 1, nếu Luật KNTC quy định thời hiệu khiếu nại là 90 ngày “kể từ ngày nhận được QĐHC hoặc biết được HVHC” thì Điều 63 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ là 90 ngày “kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp huyện có QĐHC, HVHC”. Vì vậy, mặc dù hai văn bản trên đều ghi 90 ngày nhưng thời hiệu là khác nhau vì thời gian “nhận được”, “biết được” QĐHC, HVHC diễn ra sau thời điểm “có” QĐHC, HVHC có thể là rất lâu… Dự trù trước được điều này, Luật KNTC còn quy định rất rõ: “Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại đúng thời hiệu, thì thời gian trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại” (đoạn 2 Điều 31).
– Ngoài ra, liên quan đến Bước 5, có những điểm không thống nhất với Luật KNTC như sau:
+ Luật KNTC gọi là quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng Luật Đất đai (Điều 138) gọi là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;
+ Vì đó là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, nên theo Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành, cá nhân, tổ chức bị thu hồi đất không thể khởi kiện theo con đường tố tụng hành chính;
+ Trong điều kiện đó, Pháp lệnh TTGQCVAHC5 lại đặt ra giới hạn đối với “khiếu kiện QĐHC, HVHC về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, cụ thể là chỉ cho phép khiếu kiện đối với quyết định giải quyết khiếu nại hành chính lần đầu (Bước 3) mà không cho phép khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại hành chính lần hai (Bước 5).
Vì vậy, nếu áp dụng theo Luật Đất đai năm 2003 và Pháp lệnh TTGQCVAHC sẽ làm hạn chế quyền khởi kiện vụ án hành chính sau khi đã được giải quyết khiếu nại hành chính lần hai.
b) Đối với QĐHC, HVHC liên quan đến hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Chủ tịch UBND cấp tỉnh
– Ở Bước 1, nếu Luật KNTC quy định thời hiệu khiếu nại là “90 ngày, kể từ ngày nhận được QĐHC hoặc biết được HVHC” thì Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ là “30 ngày, kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp tỉnh có QĐHC, HVHC”. Ở đây, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP đã mâu thuẫn với Luật KNTC ở hai điểm. Thứ nhất, thời hiệu 90 ngày bị rút xuống còn 30 ngày. Thứ hai, hai thời điểm “nhận được”, “biết được” QĐHC, HVHC và thời điểm “có” QĐHC, HVHC là khác nhau…
– Tại Bước 3, các văn bản chỉ ghi nhận quyền khởi kiện ra Tòa hành chính, chứ không ghi nhận quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên trực tiếp (Điều 138 Luật Đất đai, Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP). Như vậy sẽ không có Bước 4 và Bước 5. Việc không có Bước 5 này cũng được gián tiếp khẳng định tại điểm b, khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh TTGQCVAHC. Nếu theo các căn cứ pháp lý này thì cơ chế khiếu nại hai cấp trong Luật KNTC6 đã bị phủ nhận, làm hạn chế quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp và vì vậy, cũng gián tiếp hạn chế quyền khiếu kiện ở những bước sau đó.
Vậy, trong các trường hợp nêu trên, trong hoạt động thực thi pháp luật, văn bản nào, điều khoản nào được viện dẫn và áp dụng thi hành?
Văn bản pháp quy gần đây nhất của Chính phủ về hướng dẫn các vấn đề có liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Theo Nghị định này thì “việc giải quyết khiếu nại về giá đất bồi thường, quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hoặc quyết định cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện theo Điều 138 Luật Đất đai, Điều 63, Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP và quy định giải quyết khiếu nại tại Nghị định số 136/2006/NĐ-CP7 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật KNTC”.
Điều này cho thấy, trong quá trình áp dụng, các chủ thể hành pháp đã viện dẫn Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành trước khi viện dẫn Luật KNTC (và điều này cũng đồng nghĩa với việc Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được viện dẫn sau cùng). Trong khi đó, các văn bản đất đai có xu hướng thu hẹp quyền của người khiếu nại, khiếu kiện vì vậy, khi áp dụng theo các văn bản này, tức là đã thu hẹp quyền khiếu nại, khiếu kiện mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật đã quy định, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
4. Đối tượng của khiếu nại, khiếu kiện và phạm vi giải quyết khiếu nại, khiếu khiếu kiện
Đối tượng của khiếu nại trong hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bao gồm:
– Quyết định thu hồi đất
– Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư (khoản 1 Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP)
– Các HVHC của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết các công việc thuộc phạm vi QĐHC nêu trên (khoản 2 Điều 162 Nghị định số181/2004/NĐ-CP).
Riêng đối tượng của khiếu kiện thì phải nằm trong phạm vi của đối tượng khiếu nại sau khi đã thực hiện việc khiếu nại lần đầu.
Trong khoa học luật hành chính, QĐHC thể hiện hai tính chất: tính hợp pháp và tính hợp lý nhưng trong cả hai trường hợp trên, quyền khiếu nại, khiếu kiện chỉ được thực hiện trên cơ sở tính hợp pháp8.
Điều này cho thấy, pháp luật chỉ dừng lại ở việc xác định loại QĐHC, HVHC nào là đối tượng của khiếu nại, chứ chưa thực sự xác định phạm vi mà người khiếu nại, khiếu kiện có thể đề cập và được giải quyết, chẳng hạn như: mục đích thu hồi đất, trình tự, thủ tục thu hồi đất, diện tích tái định cư trong một lô nền, giá đất…
Ví dụ, nếu trường hợp giá đất bồi thường quá thấp so với giá trên thực tế, chủ thể giải quyết khiếu nại có thể từ chối giải quyết vì cho rằng đã căn cứ đúng vào bảng giá mà UBND tỉnh đã ban hành đầu năm. Người dân thì không thể khiếu nại bảng giá vì quyết định ban hành bảng giá đất không phải là quyết định cá biệt trực tiếp ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức theo Luật KNTC. Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng chưa tạo cơ chế đối với việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện. Ngoài việc đặt ra những giới hạn về quyền khiếu kiện, bản thân việc giải quyết khiếu kiện của Tòa hành chính cũng hạn chế bởi chưa có cơ chế quy định Tòa án xem xét lại tính phù hợp của bảng giá đất mà UBND tỉnh ban hành nếu người khiếu kiện cho rằng bảng giá đất mà UBND tỉnh quy định dùng áp giá là quá thấp so với thực tế giao dịch trên thị trường.
5. Đề xuất một số giải pháp
Thứ nhất, nên bổ sung quyền khiếu kiện hành chính trong Hiến pháp. Ở các nước tiên tiến, quyền khiếu kiện (right to be heard) là một quyền hiến định, có vai trò quan trọng đối với việc phản kháng QĐHC, HVHC trước chủ thể thứ ba, độc lập và có thẩm quyền phân định ranh giới pháp lý giữa một bên là chủ thể có thẩm quyền HCNN và bên kia là cá nhân, tổ chức.
Thứ hai, nên thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng Luật KNTC phải được tôn trọng. Đây là đạo luật tiến bộ thể chế hóa Điều 74 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận các quyền năng của chủ thể chịu sự quản lý – vốn được coi là chủ thể cần được bảo vệ. Mặt khác, nếu đã pháp điển hóa một Luật KNTC dùng cho quản lý HCNN thì các đạo luật và các văn bản dưới luật khác nên tôn trọng “quy chuẩn chung về khiếu nại” này. Thử hỏi, nếu đạo luật chuyên ngành nào cũng đặt ra ngoại lệ cho riêng mình và sử dụng Luật KNTC như một đạo luật “phòng hộ” khi không có quy định, thì hệ thống pháp luật chắc chắn sẽ mâu thuẫn, chồng chéo và Luật KNTC, trong chừng mực nhất định, sẽ bị “vô hiệu hóa”. Nên chăng, cần đề ra nguyên tắc nếu một lĩnh vực QLNN cần có ngoại lệ về khiếu nại, tố cáo thì chính Luật KNTC phải nói rõ. Mọi trường hợp khác về khiếu nại, tố cáo, tất phải tuân thủ luật này. Đây là một trong những quan điểm được sự đồng thuận của các nhà lập pháp hiện nay, điều này đã được thể hiện trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Đất đai năm 2003: “Việc giải quyết khiếu nại về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo” (Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, khoản 2 Điều 138)9.
Thứ ba, trong điều kiện nước ta đang xây dựng nền kinh tế mở theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh, nhiều tình huống mới phát sinh. Trong trường hợp các văn bản có sự mâu thuẫn nhau, việc các cơ quan thừa hành pháp luật “chỉ mục” nên áp dụng đạo luật này hay đạo luật kia trong một số trường hợp nhất định là giải pháp tình thế cần thiết. Tuy nhiên, để bảo đảm nguyên tắc pháp chế, việc chỉ mục này nên đặt dưới nguyên tắc “có lợi cho người bị áp dụng” và tuyệt đối không được thu hẹp các quyền và lợi ích chính đáng của người dân mà Hiến pháp và các đạo luật quy định.
Thứ tư, quyền khiếu kiện hành chính là một quyền thiết yếu trong một cơ chế QLNN công bằng, dân chủ. Việc giới hạn, đặt những điều kiện để hạn chế quyền này là việc không bảo đảm yếu tố công bằng giữa một bên là cơ quan HCNN và bên kia là cá nhân, tổ chức chịu sự quản lý. Việc giải quyết khiếu nại do chính cơ quan hành chính thực hiện, tuy rằng rất cần thiết, nhưng không thể triệt để vì “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Pháp luật cần quy định quyền khiếu kiện được đầy đủ trong mọi trường hợp sau khi đã khiếu nại không thành để đảm bảo “quyền được nghe thấy bởi bên thứ ba” làm trọng tài và độc lập đưa ra phán quyết đối với các bên.
Cuối cùng, mọi quy định về quyền khiếu nại, khiếu kiện và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện sẽ trở nên vô nghĩa nếu bản thân pháp luật không xác định được phạm vi khiếu nại, hoặc xác định phạm vi khiếu nại quá hẹp. Mặt khác, các chủ thể bị xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp sẽ không thể được bảo vệ nếu không có cơ chế để giải quyết khiếu kiện. Đặc biệt nên dự hướng trong tương lai việc trao cho chủ thể giải quyết khiếu kiện có đủ khả năng để xem xét, đánh giá không chỉ QĐHC, HVHC cá biệt; với việc xây dựng Tòa án Hiến pháp, nên chăng trao cho Tòa án quyền xem xét một số loại QĐHC quy phạm đặc thù, ví dụ như xem xét tính hợp lý của bảng giá đất mà UBND cấp tỉnh ban hành có “sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường”10 để quyền khiếu nại, khiếu kiện được đảm bảo triệt để hơn.
(1) Trước Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, ở Việt Nam đã có Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân ngàY 27/11/1981; Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân ngày 7/5/1991…
(2)Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm 2006.
(3) Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
(4) Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
(5) Điều 2 và khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh TTGQCVAHC.
(6) Xem Điều 25 Luật KNTC.
(7) Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KNTC.
(8) Xem khoản 1, Điều 2 của Luật KNTC; Điều 1 của Pháp lệnh TTGQCVAHC.
(9) Diễn đàn các doanh nghiệp Việt Nam, Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003, http://www.vibonline.com.vn/vi-VN/Drafts/Details.aspx?DraftID=277&Version=1.
(10)Xem Điều 11 Nghị định 69/NĐ-CP 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
>> Tham khảo dịch vụ pháp lý liên quan: Tư vấn mua bán, chuyển nhượng đất đai;
>> Xem thêm: Gây ra tai nạn giao thông trong năm 2020 thì phải bồi thường những gì ?
5. Giá đất bồi thường khi thu hồi đất của nhà nước là bao nhiêu ? Thủ tục bồi thường và giải quyết khiếu nại thế nào ?
Luật sư tư vấn:
Thẩm quyền quy định về giá đất bồi thường. Điều kiện bồi thường. Thủ tục bồi thường và giải quyết khiếu nại về đất đai. Thu hồi đất.
Căn cứ quy định tại Luật đất đai năm 2013 như sau:
” Điều 66. Thẩm quyền thu hồi đất
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất”.
Trường hợp của bạn xã đang có hành vi vi phạm quy định pháp luật về đất đai. Xã không có thẩm quyền thu hồi đất theo quy định của trên. Do đó, nếu như Xã có thu hồi thì gia đình bạn có quyền làm đơn khiếu nại lên chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện yêu cầu giải quyết. Đồng thời, pháp luật không có quy định nào về việc cả chồng và vợ là công nhân, viên chức thì không được bồi thường mà chỉ được hỗ trợ.
Kính thưa luật sư. Gia đình tôi đang trong diện bị xã thu hồi đất nông nghiệp để xã sử dụng vào mục đích đấu giá quyền sử dụng đất nông nghiệp của xã. trong khi tôi hoàn thiện hồ sơ kiểm đếm của xã chúng tôi được nghe đồng chí cán bộ giải phóng mặt bằng của xã nói: ” Nếu gia đình chị cả 2 vợ chồng đều là công nhân, viên chức thì chỉ được hỗ trợ phần nào thôi chứ không được hưởng chế độ bồi thường như những người nông dân khác” . Nhưng tôi xin hỏi luật sư: Gia đình tôi chỉ có tôi là viên chức nhà nước còn chồng tôi chỉ là công nhân hợp đồng, hưởng lương theo hợp đồng 68 thôi thì có được hưởng chế độ đền bù như những người nông dân thường không hay là chỉ được hỗ trợ phần nào thôi? Tôi xin chân thành cảm ơn.
Như trên.
Nhà nước thu hồi đất nữa diện tích đất của tôi ban đầu, còn lại nữa diện tích còn lại không có lối đi. Bây giờ nhà nước bắt tôi thoải thuận mua lại đất của chủ hộ khác để đi lại có đúng không thưa luật sư? Nhưng tôi muốn nhà nước phải bố trí dành cho tôi 1 lối đi đất của tôi như vậy đúng quy định không ạ?
Căn cứ quy định tại Luật dân sự năm 2005 quy định:
” Điều 275. Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề
1. Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.
3. Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù” Trường hợp này bạn có thể thỏa thuận vấn đề lối đi đối với các bên còn lại. Việc nhà nước yêu cầu là đúng quy định của pháp luật.
Kính thưa luật sư! Luật sư cho em hỏi: em định mua một mảnh đất 30m2 tại Long Biên Hà Nội, hiện nay mảnh đất đó đang là đất nông nghiệp chưa có sổ đỏ. Vì em mua để làm đất ở nên nhà chủ nói rằng sẽ chuyển thành đất nhà ở. Theo luật sư nhà chủ nói vậy có đúng khổng? và phí để chuyển thành đất nhà ở mảnh 30m2 này hết khoảng bao nhiêu khi giá đất khoảng 10trieeu/m2. công thức chuyển phí như thế nào a?Các thủ tục em càn làm là gì nếu mua mảnh đất này a?Kính mong luật sư tư vấn chi tiết và sớm gửi lại!Em chân thành cảm ơn!
Trường hợp này đất chưa có giấy chứng nhận sử dụng đất thì hai bên không thể chuyển nhượng được. Do đó, bạn phải thỏa thuận với bên chủ đất làm giấy chứng nhận sử dụng đất rồi mới tiến hành chuyển nhượng. Đồng thời khi có giấy chứng nhận sử dụng đất rồi thì bạn hoặc bên chủ nhà có thể thỏa thuận về vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại nNghị định số 45/2014/NĐ-CP như sau:
“Điều 5. Thu tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất
2. Đối với hộ gia đình, cá nhân:
b) Chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. […]”
Phí chuyển mục đích sử dụng đất bạn có thể tham khảo quyết định của UBND thành phố Hà Nội quy định về phí chuyển mục đích sử dụng đất.
Sau khi có giấy chứng nhận sử dụng đất thì bạn và chủ đất có thể làm hợp đồng chuyển nhượng đất, sau đó công chứng, chứng thực.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: đẹp không tưởng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.
>> Xem thêm: Mức bồi thường thu hồi đất khai hoang theo quy định mới năm 2020 ?
6. Có phải thực hiện quyết định thu hồi đất khi đang chờ kết quả giải quyết khiếu nại ?
Luật sư tư vấn
“Điều 16. Nhà nước quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất (Luật đất đai năm 2013)
1. Nhà nước quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
a) Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;
b) Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai;
c) Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
2. Nhà nước quyết định trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.”
– Nghị định số 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
“Điều 28. Vi phạm quy định về giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất mà không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này.
2. Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận và việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất bị sai lệch mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Phạt tiền từ trên 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả trong hồ sơ xin giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, cấp Giấy chứng nhận mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc phải làm thủ tục đính chính Giấy chứng nhận đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều này;
b) Buộc hủy bỏ giấy tờ giả đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều này.”
Căn cứ khoản 6 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai:
“6. Người có đất thu hồi, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại về việc thu hồi đất theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực hiện quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật thì phải dừng cưỡng chế nếu việc cưỡng chế chưa hoàn thành; hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định thu hồi đất gây ra (nếu có).
Đối với trường hợp việc thu hồi đất có liên quan đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân khác trong việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật khác có liên quan thì Nhà nước tiến hành thu hồi đất, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất theo quy định mà không phải chờ cho đến khi giải quyết xong quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất giữa người có đất thu hồi và tổ chức, cá nhân đó theo quy định của pháp luật có liên quan.”
Như vậy cần xem xét việc thửa đất của bạn bị thu hồi để cấp cho UBND phường A, Tp. B có cơ sở pháp lý nào mà chỉ dựa vào những tham mưu sai sự thật và trái pháp luật khi giả chữ ký của bạn trên biên bản đo đạc là trái với quy định của pháp luật vì nhà nước chỉ được thu hồi đất khi thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điều 16 của luật đất đai năm 2013.Hiện chưa có quyết định trả lời giải quyết cuối cùng của UBND Tỉnh B về việc giải quyết khiếu nại đối với trường hợp của bạn nên nếu việc thu hồi là hợp pháp thì UBND Phường A được quyền yêu cầu bạn giao đất cho họ trong lúc này.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: đẹp không tưởng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật đất đai – Công ty luật Minh KHuê
>> Xem thêm: Thời hạn của loại đất quy định trong bảng giá đất ? Quy định về mua bán các loại đất