Mục lục bài viết
1. Tranh chấp đất đai khi chiếm hữu hợp pháp, ngay tình trong 30 năm ?
” 1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.”
Như vậy đã đủ hợp pháp để làm giấy tờ cấp sổ hồng hay chưa? Hoặc còn điều kiện nào chưa thỏa đáng?
Khoản 2 Điều 101 Luật đất đai 2013 quy định:
” Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất…”
Theo như trường hợp tôi nêu ở trên và điều luật 101 luât đất đai 2013 qui định:
“….đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất….” nghĩa là đất không tranh chấp mới đc giải quyết, còn trong trường hợp của e là có tranh chấp thì xử lý thế nào ạ?
Dựa theo Bộ luật dân sự (sửa đổi) năm 2015 * (Luật số 91/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017) Điều 623 Thời hiệu thừa kế:
” 1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”
Như thế trong vụ việc tranh chấp tuy xảy ra nhưng theo luật mới áp dụng thì có thể loại bỏ đơn khiếu nại và tước quyền của những người tranh chấp ấy ra không? khi vào 1/1/2017 Bộ luật dân sự 2015 (sử đổi) chính thức có hiệu lực ạ? Vì họ chưa bao giờ có vai trò nào trong việc sử dụng đất, hỗ trợ đóng thuế,… cả.
Xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn pháp luật đất đai trực tuyến gọi: đẹp không tưởng
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Vấn đề bạn cần tư vấn liên quan đến việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất. Về vấn đề này, Luật đất đai năm 2013 quy định như sau:
” Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành”.
Như vậy, gia đình bạn dù đã khai thác sử dụng và nộp thuế đất 30 năm nhưng do là mảnh đất này là đất tranh chấp nên gia đình bạn phải tiến hành giải quyết tranh chấp đấ đai trước theo quy định tại điều 2013 Luật đất đai năm 2013 nêu trên. Sau khi giải quyết tranh chấp xong thì áo dụng quy định tại điều điểm d, điều 99, Luật đất đai năm 2013 như sau:
” Điều 99. Trường hợp sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
1. Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho những trường hợp sau đây:……..
d) Người được sử dụng đất theo kết quả hòa giải thành đối với tranh chấp đất đai; theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành…….”
Khi đó, gia đình bạn sẽ được cấp giấy chứng nhận sử dụng đất.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: đẹp không tưởng hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật đất đai qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng ./.
>> Tham khảo ngay: Tranh chấp đất đai phải kiện ở đâu và Kiện như thế nào ?
>> Xem thêm: Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, án phí phúc thẩm
2. Thỏa thuận về tranh chấp đất đai sau khi có bản án phúc thẩm ?
Biên bản thỏa thuận lại giữa 2 gia đình có sự ký tên của các bên và sự làm chứng của 2 cán bộ xã , biên bản cũng đã được đóng dấu giáp lai của UBND xã. Nay , bà N tiếp tục có đơn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dich vô hiệu với lý do :
1. Bà D dọa sẽ tự sát nếu bà N không thỏa thuận , và bà bị gia đình bà D ép buộc phải chia đôi số tiền án phí và lệ phí thi hành án .
2. Việc đo đạc và trao đổi đất không đúng với thỏa thuận .
Vậy thưa các luật sư, thỏa thuận trên có hiệu lực pháp luật không ?
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến gọi : đẹp không tưởng
Trả lời:
Bản án phúc thẩm của tòa án là bản án có hiệu lực ngay, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện theo.Tuy nhiên trên tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong vụ án dân sự pháp luật cho phép việc các bên có thể giải quyết bằng cách thỏa thuận thi hành án, căn cứ vào Điều 6 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014 ) như sau:
Điều 6. Thỏa thuận thi hành án
1. Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận.
Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án.
2. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
Trường hợp của bạn , theo khoản 1 điều 6 nêu trên tuy hai bên đã thỏa thuận về việc thi hành án phúc thẩm , nhưng thỏa thuận này không có hiệu lực pháp luật do có sự vi phạm pháp luật về sự tự nguyện trong giao dịch dân sự( thể hiện ở việc bà D cưỡng ép bà N thỏa thuận ) và bên phía gia đình bà D không thực hiện đúng thỏa thuận ( đo đạc , chia sai đất ) vì vậy mà kết quả của thỏa thuận thi hành án dân sự trên không được công nhận , mặt khác , theo quy định tại khoản 2 điều 6 luật thi hành án dân sự , bà N có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo đúng bản án mà tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên .
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: đẹp không tưởng hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.
>> Tham khảo ngay: Tư vấn về vấn đề tranh chấp đất đai và quyền thừa kế ?
>> Xem thêm: Giải quyết tranh chấp đất khi không có giấy tờ chứng minh ?
3. Tư vấn về tranh chấp đất đai trong hồ sơ địa chính ?
Trong hồ sơ địa chính 299 thực hiện năm 1986 thì thửa đất trên được ba tôi đứng tên: thửa đất số 100, diện tích 900m2. Đến năm 1997 khi đo lại bản đồ địa chính, lúc đó do ba tôi đi vắng không có nhà nên con của người họ hàng (ông A) đã kê khai thửa đất họ đang được cho ở tạm nên thửa đất số 100 trên đã tách thàn 02 thửa: số 20 diện tích 700m2 do ba tôi đứng tên; số 21 diện tích 200m2 do ông A đứng tên (hiện trạng sử dụng lúc đó của gia đình tôi vẫn là 850m2). Đến năm 2001 khi thực hiện cấp GCNQSDD do không hiểu biết nên ba tôi đã xác nhận trong các hồ sơ liên quan diện tích 700m2 và được cấp GCN thửa đất số 20,diện tích 700m2; đồng thời ông A được cấp GCN thửa đất số 21, diện tích 200m2(hiện trạng sử dụng đất hiện tại vẫn như trước đây). Thời gian gần đây nhà ông A triển khai xây dựng trên thửa đất số 21(vì họ nói do Nhà Nước đã cấp GCN cho họ) nên đã xảy ra tranh chấp-.Qua tìm hiểu tôi được biết trong hồ sơ cấp GCN của họ ghi nguồn gốc đất: do ông bà để lại. Cho tôi hỏi, trường hợp này gia đình tôi có khả năng thu hồi lại mảnh đất trên được không?
Tôi xin chân thành cảm ơn!
>> Luật sư tư vấn pháp luật đất đai trực tuyến, gọi đẹp không tưởng
Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015:
Điều 494. Hợp đồng mượn tài sản
Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được.
Điều 499. Quyền của bên cho mượn tài sản
1. Đòi lại tài sản ngay sau khi bên mượn đạt được mục đích nếu không có thỏa thuận về thời hạn mượn; nếu bên cho mượn có nhu cầu đột xuất và cấp bách cần sử dụng tài sản cho mượn thì được đòi lại tài sản đó mặc dù bên mượn chưa đạt được mục đích, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý.
2. Đòi lại tài sản khi bên mượn sử dụng không đúng mục đích, công dụng, không đúng cách thức đã thỏa thuận hoặc cho người khác mượn lại mà không có sự đồng ý của bên cho mượn.
3. Yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản do bên mượn gây ra.
Theo các quy định trên và thông tin bạn cung cấp thì trước đó gia đình bạn chỉ cho người họ hàng kia mượn tài sản để xây nhà ở. Trong trường hợp này, giao dịch này có thể xem là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật đất đai lúc bấy giờ là các giao dịch liên quan đến đất đai phải được lập thành văn bản và có xác nhận của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, thời điểm cho mượn quyền sử dụng đất đã rất lâu rồi, do đó, Theo hướng dẫn tại khoản 2, điểm b, tiểu mục 2.4, mục II của nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP có quy định, hướng giải quyết cho những trường hợp này như sau:
“2.4 Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mà sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác xã đã bị giải thể.
b) Chủ cũ hoặc người thừa kế của người đó có quyền đòi lại quyền sử dụng đất hoặc giá trị quyền sử dụng đất khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Đất không bị Nhà nước quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
– Chủ cũ có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003;
– Người đang sử dụng đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và cũng không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 vì lý do người đó sử dụng đất là ở nhờ, mượn, thuê, lấn, chiếm đất hoặc bằng các giao dịch dân sự khác trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”.
Trong trường hợp này, gia đình bạn cho nhà ông A mượn đất từ năm 1997, đến năm 2001, ông A đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên. Căn cứ vào quy định trên gia đình bạn không có quyền đòi lại đất do gia đình ông A đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 21 với diện tích 250m2.
>> Tham khảo ngay: Giải quyết tranh chấp đất đai ở đâu ? Thủ tục khởi kiện ra tòa thực hiện như thế nào ?
>> Xem thêm: Làm thủ tục sang tên tặng cho đất thì sẽ phải nộp các loại lệ phí nào ?
4. Tư vấn tranh chấp đất đai trong gia đình ?
Nhưng hiện nay Ông A đã chuyển đi nơi khác sinh sống lúc ông vừa 7 tuổi đến nay đã được hơn 50 năm,ông đến tranh chấp mảnh đất này với lý do là đất ngày xưa bố mẹ ông đã khai hoang và bà N là con gái đã đi lấy chồng nên không được thừa hưởng mảnh đất này? Mảnh đất lúc đó ông Nai đi cũng không có giấy tờ gì chứng minh mảnh đất đó do bố mẹ ông đã khai hoang. Vậy cho em hỏi:
1. Làm rõ sự việc này hộ em với?
2 . Đất trồng cây hàng năm bị bỏ hoang sau bao nhiêu năm thì không được làm?
3. Là con gái đã đi lấy chồng nhưng quay lại chăm sóc bố mẹ lúc già có được thừa hưởng mảnh đất này không?
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến, gọi: đẹp không tưởng
Trả lời:
Thứ nhất, Theo thông tin bạn cung cấp, bố mẹ và 2 anh trai bà Lý Thị N đã mất, việc bà đi lấy chồng và bố mẹ bà có để lại chúc hay không, mảnh đất đó đương nhiên thuộc về bà Lý Thị N và bà cũng đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà. Việc ông A đến tranh chấp mảnh đất này với lý do là đất ngày xưa bố mẹ ông đã khai hoang và bà N là con gái đã đi lấy chồng nên không được thừa hưởng mảnh đất này là hoàn toàn không hợp lý, đồng thời, ông A cũng không có giấy tờ gì chứng minh mảnh đất đó do bố mẹ ông đã khai hoang. Do đó, ông A không hề có căn cứ để tranh chấp mảnh đất này.
Thứ hai, Tại điểm h, khoản 1 Điều 64 Luật đất đai năm 2013 quy định về Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai
“1. Các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm:
h) Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng liên tục;”
Theo đó, đất trồng cây lâu năm nếu không được sử dụng trong thời hạn 18 tháng liên tục thì sẽ bị Nhà nước thu hồi do vi phạm pháp luật về đất đai.
Thứ ba, Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luât, cụ thể:
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại…
Như vậy, Khi bố mẹ qua đời mà không có di chúc thì người được quyền hưởng di sản là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức là “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;” Và theo quy định của pháp luật “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”’ nên mỗi người thừa kế, không phân biệt là nam hay nữ đều có quyền hưởng một phần di sản thừa kế ngang bằng với những người thừa kế khác.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: đẹp không tưởng hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật đất đai qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác!
>> Tham khảo ngay: Giải quyết tranh chấp đất đai trong quá trình mua bán nhà đất ?
>> Xem thêm: Tính giá trị đất đền bù thu hồi đất như thế nào ?
5. Tranh chấp đất đai liên quan đến di sản thừa kế ?
Luật sư tư vấn Luật dân sự trực tuyến gọi: đẹp không tưởng
Trả lời:
Theo thông tin bạn cung cấp, tài sản trên đứng tên ông bà bạn, vào thời điểm tách hộ không liên quan đến việc tách thửa đất, do đó mà thửa đất trên vẫn đứng tên ông bà bạn, do Ông bà bạn mất không để lại di chúc nên tài sản trên sẽ được chia theo pháp luật.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Căn cứ theo quy định trên, bác cả, bác hai và bố bạn đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất, do đó mỗi người được hưởng suất thừa kế là như nhau.
>> Tham khảo nội dung: Tư vấn giải quyết tranh chấp đất đai khi chưa có sổ đỏ ?
>> Xem thêm: Mẫu di chúc thừa kế tài sản, đất đai mới nhất năm 2020
6. Tranh chấp đất đai bị chồng lấn với hàng xóm ?
Khi ông nội tôi mất đi có để lại cho 6 người con, nhưng cả gia đình cô bác tôi đều nhất trí đồng ý cho 1 người cô toàn quyền sử dụng mảnh đất đó. Từ năm 1973 đến 2014 gia đình tôi sử dụng bình thường và không có tranh chấp gì với mọi người bên cạnh. Từ 1973 đến 2014 gia đình vẫn sử dụng giấy chứng nhận cũ của chính quyền Sài Gòn cấp. Năm 2014 có dự án cấp lại sổ đỏ mới thì gia đình tôi đăng kí làm mới lại giấy CNQSDĐ mảnh đất đó. Trong lúc đó thì có 1 ông hàng xóm bên cạnh kiện gia đình tôi ra tòa và đòi gia đình tôi trả lại đất cho ông ta.
Trong sổ đỏ của ông ta có 1 phần chồng lên đất của gia đình tôi, hơn 3000 mét vuông. Giấy CN QSDĐ của ông ta được cấp vào năm 2003 và đích thực là có 1 phần trùng lên đất nhà tôi (hơn 3000 mét vuông). Phần đất 3000 mét vuông đó là của gia đình tôi, tại sao lại được lấy cấp cho ông ta, giờ ông ta lại bắt buộc gia đình tôi phải trả cho ông ta. Bản thân ông ta là người cậy có con cháu làm trong Uỷ ban và địa chính xã nên luôn gây hấn và tranh chấp đất với mọi người xung quanh. Từ trước đến giờ ranh giới giữa đất nhà tôi và ông ta không có hàng rào cụ thể. Mà lấy cái ao cá và căn nhà lá của ông ta làm mốc. Mong luật sư tư vấn giúp tôi làm thế nào để gia đình tôi lấy lại được mảnh đất của mình.
Tôi xin cảm ơn rất nhiều.
Luật sư tư vấn Luật đất đai trực tuyến, gọi: đẹp không tưởng
Trả lời:
Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Nội dung tư vấn:
Trường hợp của bạn là hai thửa đất đều có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có một phần đất bị chồng lấn.
Trước tiên cần tiến hành thủ tục đo đạc lại toàn bộ các thửa đất và sẽ do cơ quan địa chính thực hiện. Sau khi đo đạc hiện trạng hai thửa đất đối chiếu với bản đồ qua các thời kỳ và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nếu có sự sai sót trong việc xác định diện tích trong quá trình cấp giấy chứng nhận thì bạn làm đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện giải quyết.
Theo như bạn cung cấp thì hai thửa đất đều có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vậy khi thửa đất được cấp giấy chứng nhận sau thì cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phải biết ranh giới đất chồng lấn nhưng vẫn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên trách nhiệm thuộc về Uỷ ban nhân dân huyện.
Do đó, đối với trường hợp tranh chấp giữa gia đình bạn và ông hàng xóm có thể giải quyết theo quy định của pháp luật như sau:
Điều 202. Hòa giải tranh chấp đất đai (Luật đất đai năm 2013):
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Như vậy, trường hợp này gia đình bạn và ông hàng xóm có thể tự hòa giải với nhau, nếu không tự hòa giải được thì có thể đề nghị hoà giải đến UBND cấp xã (phường) nơi có đất tranh chấp. Trong thời hạn 45 ngày, Chủ tịch UBND có trách nhiệm tổ chức hoà giải cho các bên hoặc khởi kiện ra tòa để yêu cầu giải quyết. Trường hợp hoà giải thành, gia đình bạn và ông hàng xóm thống nhất lại được ranh giới đất đai của mình và có chênh lệch so với giấy CNQSDĐ được cấp thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường Phòng Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bạn và ông hàng xóm.
Trường hợp hoà giải không thành thì lập biên bản hoà giải không thành, có chữ ký của các bên và xác nhận của địa phương về hoà giải không thành. Khi đó sẽ được giải quyết theo quy định tại Khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013 (Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai) như sau:
“1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;”…
Do diện tích đất của gia đình bạn và ông hàng xóm đều có CNQSDĐ nên sau khi hoà giải ở địa phương không thành, bạn có thể nộp đơn trực tiếp đến Toà án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng dân sự.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: đẹp không tưởng hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận Tư vấn Pháp luật Đất đai – Công ty luật Minh Khuê
>> Xem thêm: Cán bộ địa chính đo đất sai dẫn đến tranh chấp thì nên làm gì ?